Huyện Thiệu Hóa, một địa phương giàu truyền thống văn hóa của tỉnh Thanh Hóa, những năm gần đây đã ghi dấu ấn đậm nét trong công tác giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công này chính là việc triển khai hiệu quả Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Bằng việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo, ổn định cuộc sống và góp phần xây dựng nông thôn mới.
Huyện Thiệu Hóa, một địa phương giàu truyền thống văn hóa của tỉnh Thanh Hóa, những năm gần đây đã ghi dấu ấn đậm nét trong công tác giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công này chính là việc triển khai hiệu quả Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Bằng việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo, ổn định cuộc sống và góp phần xây dựng nông thôn mới.
Chỉ thị số 40-CT/TW đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong việc hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Tại huyện Thiệu Hóa, chính sách này đã được triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt, tạo ra những hiệu quả thiết thực. Trên địa bàn huyện Thiệu Hóa đã và đang triển khai 13 chương trình tín dụng chính sách, hầu hết các chương trình được người dân trong huyện đánh giá cao về tính hiệu quả, điển hình như chương trình cho vay hộ nghèo. Các chương trình tín dụng được triển khai đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, từng khu vực, từ cho vay phát triển sản xuất, chăn nuôi, thủy sản đến cho vay hỗ trợ nhà ở, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Tính đến 30/9/2024, tổng nguồn vốn của NHCSXH huyện Thiệu Hóa đã đạt 595 tỷ đồng, một con số đáng kể cho thấy sự quan tâm của các cấp chính quyền đối với công tác tín dụng chính sách. Số vốn này đã giúp hàng ngàn hộ gia đình được tiếp cận vốn vay, tạo điều kiện để họ đầu tư sản xuất, kinh doanh, từ đó nâng cao thu nhập và thoát nghèo bền vững.
Chị Hà Thị Nhung, chủ cơ sở sản xuất nem chua Thiên Ân, là một trong những điển hình tiêu biểu. Nhờ khoản vay 120 triệu đồng từ NHCSXH, chị đã đầu tư máy móc, mở rộng sản xuất, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương. Chị Nhung chia sẻ, trước kia hai vợ chồng làm nhiều nghề buôn bán nhưng không thành công. Sau một thời gian đi làm thuê nhiều nơi cuộc sống vẫn chẳng khấm khá.
Đến năm 2015, chị quyết định trở về quê sản xuất nem chua. Trong lúc chưa có tiền đầu tư thì may mắn chị vay được nguồn vốn từ NHCSXH để làm vốn ban đầu sản xuất quy mô nhỏ. Từ đó với sự làm chăm chỉ, chịu khó học hỏi, mở rộng thị trường, nem chua Thiên Ân đã được người tiêu dùng trong và ngoài huyện đón nhận. Đến nay thị trường tiêu thụ sản phẩm nem chua mang thương hiệu Thiên Ân được mở rộng ra khắp các huyện, thành phố và cả một số đầu mối tại Hà Nội. Năm 2023, chị Nhung tiếp tục vay của NHNSXH 120 triệu đồng đầu tư mở rộng quy mô nhà xưởng, các thiết bị máy móc hiện đại như máy thái thịt, tủ lạnh, tủ cấp đông, máy hút chân không… để sản xuất quy mô lớn hơn. Đặc biệt, vừa đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa đầu tư mẫu mã, bao bì và chính thức đăng ký thương hiệu nem chua Thiên Ân đạt chất lượng sản phẩm OCOP của huyện Thiệu Hóa. Chị Nhung chia sẻ, được vay vốn kịp thời cùng những chia sẻ về kinh doanh, đăng ký sản phẩm OCOP nên sản phẩm nem chua Thiên Ân ngày càng phát triển, tạo công ăn việc làm cho gần 10 lao động tại địa phương. Chị Nhung cũng mong muốn tiếp tục nhận được sự đồng hành từ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội để phát triển lâu dài.
Tương tự, anh Lê Trọng Hải, chủ cơ sở sản xuất bánh cháy Tân Châu cũng đã thành công nhờ nguồn vốn vay từ NHCSXH. Từ một gia đình nghèo không có nghề trong tay, sau nhiều năm học hỏi kinh nghiệm làm bánh cháy tại miền Nam, anh Hải đã trở về quê hương vay vốn mở cơ sở sản xuất bánh cháy. Với sản phẩm mới, chất lượng đảm bảo và được khách hàng ưa chuộng, xưởng sản xuất của anh Hải ngày càng mở rộng. Đến nay cơ sở đã đầu tư nhà xưởng, máy móc và các trang thiết bị lên tới hàng tỷ đồng. Lúc cao điểm sản xuất, cơ sở thường xuyên tạo việc làm ổn định cho gần 30 công nhân. Anh Hải chia sẻ, nguồn vốn vay của NHCSXH tuy không lớn nhưng lại rất quan trọng trong lúc khởi nghiệp, là tiền đề để anh đầu tư và phát triển sản xuất quy mô như bây giờ.
Đồng lòng của cả hệ thống chính trị
Ngay sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW, huyện Thiệu Hóa đã chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện đến toàn thể cán bộ, đảng viên, hội viên, đoàn viên và nhân dân. Phòng giao dịch NHCSXH huyện Thiệu Hóa tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các trưởng thôn, các tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn cũng như tăng cường công tác quản lý nguồn vốn vay ưu đãi, bảo đảm giải ngân cho vay đúng đối tượng, đúng quy định. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hoạt động tín dụng chính sách đã mang lại hiệu quả rõ nét.
Chị Trần Thị Lan, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ thị trấn Thiệu Hóa cho biết, các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Thiệu Hóa đã đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động hội viên tham gia vay vốn, hỗ trợ nhiều chị em thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Hầu hết các văn bản, chính sách mới về nguồn vốn vay ưu đãi của NHCSXH đều được triển khai kịp thời đến các tổ vay vốn, hội viên thông qua hệ thống zalo, facebook. Thông qua đó các hội viên có nhu cầu đều được hướng dẫn và vay vốn kịp thời. Hội cũng thường xuyên hỗ trợ hội viên trong việc tư vấn, định hướng sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả. Hiện thị trấn Thiệu Hóa đang quản lý vốn vay là gần 47 tỷ đồng trên 705 hộ vay. Trong đó, riêng Hội Phụ nữ đang quản lý vốn đến nay với tổng số dư nợ là trên 23 tỷ đồng với trên 380 hộ vay. Nguồn vốn vay đều đến đúng đối tượng và sử dụng đúng mục đích đã đem lại hiệu quả cao cho các hội viên trong việc phát triển sản xuất và vương lên thoát nghèo.
Phó Chủ tịch UBND huyện Thiệu Hóa, ông Nguyễn Ngọc Hiểu, Trưởng Ban Đại diện HĐQT NHCSXH huyện cho biết, hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn huyện đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đảm bảo an sinh xã hội. Nguồn vốn cho vay ưu đãi đãi và đang phát huy hiệu quả, góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, "tín dụng đen" và tạo sự ổn định xã hội, giúp cho người nghèo và các đối tượng chính sách có thêm nhiều cơ hội để tạo ra việc làm mới, phát huy các sản phẩm lợi thế tại địa phương; tăng thu nhập, cải thiện đời sống, vươn lên thoát nghèo.
Đặc biệt ngay sau khi Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư được ban hành, cấp ủy, chính quyền địa phương tham gia vào cuộc quyết liệt và đã chủ động cân đối ngân sách để ủy thác qua NHCSXH huyện. Sự tham gia của Chủ tịch UBND xã vào Ban đại diện của Hội đồng quản trị NHCSXH huyện đã tạo thuận lợi cho hoạt động của NHCSXH, đặc biệt tạo thuận lợi để có thể tháo gỡ những vướng mắc phát sinh tại địa phương. Nhờ sự tham gia và chỉ đạo quyết liệt của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương, nguồn vốn của NHCSXH đã được huy động và gia tăng.
Tính đến 30/9/2024 tổng nguồn vốn của NHCSXH huyện đạt 595 tỷ đồng, tăng 1,9 lần so với thời điểm trước khi Chỉ thị số 40 được ban hành. Trong đó, nguồn vốn ủy thác từ ngân sách huyện trước Chỉ thị số 40 chưa có, nhưng đến nay đã chuyển 09 tỷ đồng, chiếm hơn 1,5% tổng nguồn vốn của NHCSXH. Nguồn vốn này đã được NHCSXH triển khai cho vay chương trình hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho nhiều người lao động trên địa bàn; nguồn vốn được sử dụng hiệu quả đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Nợ xấu của NHCSXH huyện chiếm 0,06%. Đây là tỷ lệ thấp. Điều này cho thấy người nghèo và các đối tượng chính sách có tính kỷ luật tài chính rất cao và cũng giúp bảo toàn nguồn vốn của NHCSXH huyện để có thể tiếp tục cho vay nhiều hộ gia đình, nhiều người nghèo hơn trong thời gian tới.
Bên cạnh những thành công đạt được, việc triển khai tín dụng chính sách tại huyện Thiệu Hóa vẫn còn một số khó khăn. Để hoạt động chính sách phù hợp và ngày càng hiệu quả, Phó Chủ tịch UBND Nguyễn Ngọc Hiểu mong muốn Chính phủ và các bộ ngành tiếp tục quan tâm có chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ có mức sống trung bình để sản xuất kinh doanh. Tiếp tục quan tâm bổ sung nguồn vốn một số chương trình mà hộ nghèo và các đối tượng chính sách có nhu cầu lớn như: nguồn vốn cho vay Giải quyết việc làm, cho vay Nhà ở xã hội, cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn…
Có thể thấy, tín dụng chính sách xã hội đã và đang trở thành một công cụ hữu hiệu để giúp người nghèo thoát nghèo, góp phần xây dựng nông thôn mới tại huyện Thiệu Hóa. Tuy nhiên, để đạt được những thành công bền vững hơn, cần có sự nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và người dân.
Ngày 14/6/2024, Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Cgir thị gồm những nội dung cơ bản và điểm mới như sau:
Thứ nhất: Ý nghĩa, tầm quan trọng của Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng?
Điều lệ Đảng quy định đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc được tổ chức thường lệ 5 năm một lần (đối với chi bộ trực thuộc 5 năm hai lần). Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng của Đảng, của Đất nước. Đại hội có nhiệm vụ chủ yếu:
Đại hội có nhiệm vụ đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết đại hội trong nhiệm kỳ và quyết định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ tới; thảo luận, tham gia ý kiến vào các dự thảo văn kiện của cấp ủy cấp trên; chuẩn bị nhân sự và bầu ban chấp hành, ban thường vụ, ủy ban kiểm tra, các chức danh lãnh đạo cấp ủy các cấp; bầu đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên.
Để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, trong mỗi nhiệm kỳ đại hội, Bộ Chính trị đều ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng; các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng theo chức năng, nhiệm vụ, có trách nhiệm nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn liên quan. Đây là các văn bản đặc biệt quan trọng chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng cụ thể hóa và lãnh đạo tổ chức thực hiện ở cấp mình, góp phần tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
Để chủ động chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030 tiến tới Đại hội XIV của Đảng, ngay từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đưa vào Chương trình công tác toàn khóa; Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các cơ quan, đơn vị liên quan, tiến hành tổng kết việc thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị khóa XII và xây dựng Chỉ thị mới của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay và nhiệm kỳ tới.
Quá trình tổng kết Chỉ thị số 35 và xây dựng Chỉ thị mới của Bộ Chính trị được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc, công phu, kỹ lưỡng, khoa học, bài bản, dân chủ, cầu thị, sát với yêu cầu thực tiễn; tổ chức nhiều hội nghị lấy ý kiến góp ý của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương; xin ý kiến các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và trình xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ 9 (với 108 lượt ý kiến góp ý) để tiếp thu, hoàn thiện. Qua lấy ý kiến, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, các cấp ủy, tổ chức đảng đều cơ bản đồng tình, thống nhất cao.
Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị đã thống nhất ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Đây là văn bản hết sức quan trọng, định hướng rõ những quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, yêu cầu và những nội dung cơ bản chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp để các cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện ở cấp mình; bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Thứ hai : Những điểm mới, điểm nhấn của Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị?
Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 kế thừa các nội dung còn phù hợp của Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị khóa XII và điều chỉnh, bổ sung thêm những nội dung, trong đó có một số điểm mới sau:
Thứ nhất, về yêu cầu: Chỉ thị lần này đã cơ bản kế thừa các yêu cầu trong Chỉ thị đại hội đảng bộ các cấp một số nhiệm kỳ gần đây; các quan điểm, mục tiêu, yêu cầu của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, các quy định của Đảng có liên quan; đồng thời, tiếp thu đầy đủ chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng. Chỉ thị đặt ra 7 yêu cầu đối với công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030, trong đó bổ sung mới 1 yêu cầu nêu rõ chỉ đạo của Bộ Chính trị cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, công tác chuẩn bị nhân sự.
Thứ hai, về chuẩn bị văn kiện: Chỉ thị nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng chuẩn bị văn kiện; quá trình xây dựng dự thảo văn kiện đại hội phải phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc và của cán bộ, đảng viên, đồng thời nhấn mạnh việc ý kiến tham gia, góp ý của cán bộ, đảng viên, nhân dân; trong thảo luận cần hết sức cầu thị, lắng nghe, tôn trọng ý kiến lẫn nhau, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao, nhất là đối với những vấn đề mới, vấn đề khó.
Thứ ba, về tiêu chuẩn cấp ủy viên nhiệm kỳ 2025 – 2030: Chỉ thị lần này cơ bản kế thừa tiêu chuẩn nêu tại Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị khóa XII, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; tiêu chuẩn cán bộ nêu tại Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4/8/2017 và Quy định số 214-QĐ/TW ngày 2/1/2020 của Bộ Chính trị và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
(1- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
2- Có phẩm chất đạo đức, lối sống gương mẫu, trong sáng; thực hiện nghiêm quy định của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kê khai tài sản, thu nhập trung thực, minh bạch; không cơ hội, tham vọng quyền lực, cục bộ, bè phái, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”,… Không để vợ hoặc chồng, con, người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi.
3- Có năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tư duy đổi mới, tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả; nói đi đôi với làm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có thành tích, kết quả công tác và “sản phẩm” cụ thể trong địa bàn, lĩnh vực công tác được giao…); đồng thời, bổ sung, cụ thể hóa quy định về thời gian giữ chức vụ đối với cán bộ được giới thiệu ứng cử chức vụ cao hơn theo Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử cụ thể: Cán bộ được giới thiệu để bầu tham gia cấp ủy, các chức danh lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị – xã hội (chức vụ cao hơn), nhìn chung phải có thời gian giữ chức vụ đang đảm nhiệm hoặc chức vụ tương đương ít nhất là 2 năm (24 tháng); trường hợp đặc biệt có thời gian giữ chức vụ ít nhất là 1 năm (12 tháng), do cấp ủy có thẩm quyền bổ nhiệm cán bộ xem xét, quyết định. Đồng thời, Bộ Chính trị giao cấp ủy các cấp cụ thể hóa tiêu chuẩn cấp ủy cho phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương, cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đảng bộ nhiệm kỳ 2025 – 2030 và những năm tiếp theo.
Thứ tư, về độ tuổi tái cử và lần đầu tham gia cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội gắn với tuổi công tác được kéo dài theo Nghị định số 135-NĐ/CP của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu theo Bộ luật Lao động: Chỉ thị số 35-CT/TW tiếp tục kế thừa các quy định tại Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII, xác định: Những đồng chí lần đầu tham gia cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội phải còn thời gian công tác ít nhất trọn 1 nhiệm kỳ trở lên; giới thiệu tái cử cấp ủy phải còn thời gian công tác ít nhất từ 1/2 nhiệm kỳ (30 tháng) trở lên. Đồng thời, bổ sung, điều chỉnh quy định về tái cử chức danh lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là: Cán bộ tái cử cấp ủy thì được tái cử các chức danh lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội nhưng phải còn thời gian công tác ít nhất 18 tháng trở lên tại thời điểm bầu cử hoặc đại hội của mỗi tổ chức.
Thứ năm, về cơ cấu, tỷ lệ cán bộ tham gia cấp ủy và chủ trương cán bộ không là người địa phương: Chỉ thị của Bộ Chính trị quy định rõ phải bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy đối với những địa bàn, lĩnh vực quan trọng, nhưng coi trọng chất lượng, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn; không nhất thiết địa phương, ban, ngành nào cũng phải có người tham gia cấp ủy; quy định thống nhất những chức danh có cơ cấu “cứng” tham gia ban thường vụ, số chức danh còn lại do cấp ủy quyết định cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và tình hình đội ngũ cán bộ. Phấn đấu đổi mới không dưới 1/3 tổng số cấp ủy viên trong mỗi nhiệm kỳ; phấn đấu đạt tỉ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ; phấn đấu tỉ lệ cán bộ trẻ từ 10% trở lên, trong đó, độ tuổi cán bộ trẻ được điều chỉnh, bổ sung dưới 42 tuổi đối với cấp tỉnh, cấp huyện; dưới 40 tuổi đối với cấp xã theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày 18/11/2020 của Chính phủ; tỉ lệ cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số bảo đảm phù hợp với đặc điểm, cơ cấu dân tộc và điều kiện cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Cơ bản thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương gắn với việc sử dụng, bố trí hài hòa nguồn cán bộ tại chỗ trong quy hoạch; hoàn thành 100% ở cấp huyện; khuyến khích thực hiện ở cấp xã và các chức danh khác.
Thứ sáu, về số lượng cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ cấp ủy các cấp: Chỉ thị lần này xác định số lượng cấp ủy viên cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện như nhiệm kỳ 2015 – 2020 và quy định cán bộ Trung ương điều động, luân chuyển giữ chức vụ bí thư, phó bí thư cấp ủy hoặc phó bí thư, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh nằm trong số lượng ủy viên ban chấp hành, ủy viên thường vụ cấp ủy cấp tỉnh nêu trên. Đồng thời, bổ sung, quy định cụ thể hơn: Số lượng ban thường vụ cấp ủy cấp huyện từ 11 đến 13 đồng chí; số lượng cấp ủy viên đảng bộ cấp xã không quá 15; ban thường vụ không quá 5, định hướng bố trí cơ cấu ban thường vụ đối với một số chức danh cụ thể và giao ban thường vụ cấp uỷ cấp tỉnh cụ thể hoá, chỉ đạo ban thường vụ cấp ủy cấp huyện xem xét, quyết định cơ cấu cụ thể cho thống nhất và phù hợp với tình hình, yêu cầu nhiệm vụ. Đối với những đảng bộ cấp xã, cấp huyện hợp nhất, sáp nhập thì số lượng cấp ủy viên có thể nhiều hơn nhưng tối đa không quá tổng số lượng hiện có trước khi hợp nhất và chậm nhất sau 5 năm, thì phải thực hiện theo quy định.
Thứ bảy, về quy trình nhân sự: Cơ bản thực hiện theo Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị khóa XII và Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, đồng thời bổ sung để bảo đảm dân chủ, chặt chẽ trên cơ sở xác định rõ thẩm quyền của tập thể lãnh đạo trong công tác nhân sự, đáp ứng yêu cầu thực tiễn; quy trình nhân sự tái cử (2 bước, rút đi 3 bước so với nhiệm kỳ trước) và quy trình nhân sự lần đầu tham gia cấp ủy (5 bước, trong đó bổ sung mới nội dung quy định cụ thể về nguyên tắc lựa chọn và tỉ lệ số dư ở mỗi bước); trình tự thực hiện đối với các đồng chí tái cử trước, sau đó là các đồng chí tham gia lần đầu.
Thứ tám, về tổ chức thực hiện: Chỉ thị của Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt Chỉ thị; các ban đảng Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn, theo dõi, tuyên truyền, kiểm tra, đôn đốc việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp. Đồng thời, giao Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, các ban, cơ quan đảng ở Trung ương, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội; các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị liên quan chỉ đạo, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, hướng dẫn liên quan, bảo đảm đồng bộ, thống nhất với Chỉ thị này và các quy định của Đảng; sớm ban hành quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, có chính sách cụ thể để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp ủy, quản lý các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo vì lợi ích chung.
Chỉ thị số 35- CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị yêu cầu: Các cấp ủy trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt Chỉ thị và xây dựng kế hoạch thực hiện ở cấp mình; lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp; làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền gắn với các phong trào thi đua yêu nước. Thành lập các tiểu ban giúp việc chuẩn bị và tổ chức đại hội; phân công ủy viên thường vụ, cấp ủy viên chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra đảng bộ cấp dưới (nếu có); tổ chức đại hội điểm để rút kinh nghiệm; chủ động nắm tình hình, kịp thời có biện pháp xử lý đối với những nơi có khó khăn hoặc có vấn đề phức tạp nảy sinh. Ban thường vụ cấp ủy cấp dưới báo cáo việc chuẩn bị văn kiện và đề án nhân sự cấp ủy khoá mới, khi được ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới tiến hành đại hội.
Về tăng cường hiệu lực giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan Trung ương
và nhà riêng của các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước
Thời gian gần đây, có nhiều công dân khiếu nại, tố cáo trực tiếp tại các cơ quan Trung ương và nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Bên cạnh số khiếu nại, tố cáo vượt cấp, chưa tuân thủ đúng trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật, có một số đơn kêu oan (cả hành chính và tố tụng), không chấp nhận nội dung giải quyết của một số cơ quan Nhà nước, khẩn cầu các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước xem xét lại.
Tình hình trên ảnh hưởng xấu tới uy tín của Đảng và Nhà nước, gây ra một số khó khăn, phức tạp về trật tự công cộng tại Thủ đô, gây trở ngại đối với sinh hoạt và làm việc bình thường của các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước; mặt khác, phản ánh sự giảm sút niềm tin của dân đối với một số cơ quan Nhà nước có trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; vì vậy, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
1. Căn cứ vào thẩm quyền theo quy định của pháp luật, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ phải hết sức quan tâm và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân kể cả những trường hợp trực tiếp xem xét giải quyết cũng như những trường hợp chỉ đạo, kiểm tra cấp dưới giải quyết. Sự việc công dân khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết của cấp nào thì trước hết cấp ấy phải xem xét, lắng nghe ý kiến của dân để giải quyết đúng pháp luật, công bằng, thoả đáng và làm tốt việc giải thích, thuyết phục người khiếu nại, tố cáo. Trường hợp người khiếu nại, tố cáo chưa đồng tình cách giải quyết, yêu cầu xem xét lại thì cơ quan cấp trên trực tiếp phải thụ lý để giải quyết, không để công dân khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài tại các cơ quan Trung ương và nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Khi công dân tập trung đông người khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan Trung ương và nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước thì yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có công dân khiếu nại, tố cáo có trách nhiệm chủ động phối hợp với Thanh tra Nhà nước và các cơ quan liên quan bàn biện pháp giải quyết và biện pháp đưa dân về để giải quyết tại địa phương.
Tổng Thanh tra Nhà nước và Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán Bộ Chính phủ phối hợp kiểm tra và có biện pháp kỷ luật nghiêm khắc đối với những sai phạm của cán bộ, công chức Nhà nước là nguyên nhân gây nên khiếu nại, tố cáo và những trường hợp thiếu trách nhiệm, né tránh, đùn đẩy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân sang cơ quan khác hoặc lên cấp trên.
2. Thành lập Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ do một đồng chí lãnh đạo Thanh tra Nhà nước trực tiếp làm Tổ trưởng, có sự tham gia của các Bộ, ngành: Thanh tra Nhà nước, Xây dựng, Địa chính, Tư pháp, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Công an, Văn phòng Chính phủ theo sự uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ tập trung giải quyết những vụ việc mà công dân khiếu nại, tố cáo kéo dài tại các cơ quan Trung ương và nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước (dưới đây gọi là Tổ công tác của Thủ tướng). Khi cần thiết, tuỳ theo tính chất, nội dung của từng vụ việc, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng được quyền trưng tập chuyên viên của bất kỳ Bộ, ngành nào tham gia Tổ công tác trong một thời gian nhất định theo chế độ biệt phái, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng trong quá trình giải quyết, nếu nội dung khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của địa phương, Bộ, ngành nào thì địa phương, Bộ, ngành đó phải tham gia cùng Tổ công tác giải quyết cho đến khi kết thúc. Đến hết quý 2 năm 1999 phải giải quyết cơ bản xong số khiếu nại, tố cáo tồn đọng nêu trên.
Tổ công tác làm việc tại Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước. Trong quá trình hoạt động, Tổ công tác của Thủ tướng được sử dụng con dấu của Thanh tra Nhà nước. Văn phòng Chính phủ chịu trách nhiệm cấp kinh phí và bảo đảm các phương tiện làm việc cần thiết cho Tổ công tác theo yêu cầu của Tổ trưởng Tổ công tác. Tổ công tác thay mặt Thủ tướng Chính phủ tiếp dân, làm việc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan để giải quyết những trường hợp khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài tại các cơ quan Trung ương và nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước; chỉ đạo trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh lập danh sách các vụ khiếu nại, tố cáo nêu trên và phân loại xử lý như sau:
a. Đối với những vụ việc đã được xem xét giải quyết theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định những người khiếu nại, tố cáo chưa đồng tình, vẫn tiếp tục khiếu nại, tố cáo lên Thủ tướng Chính phủ thì Tổ trưởng Tổ công tác có quyền xem xét ra quyết định tiến hành thẩm tra lại. Sau khi Tổ công tác đã xem xét kỹ lưỡng, đầy đủ mọi khía cạnh pháp lý và thực tế của sự việc thì xử lý theo hướng dưới đây:
- Nếu nội dung khiếu nại, tố cáo có cơ sở thì Tổ trưởng Tổ công tác theo sự uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan tự khắc phục, sửa chữa những sai sót trong thời hạn do Tổ trưởng Tổ công tác ấn định hoặc báo cáo, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định việc thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp, các quyết định giải quyết trước đó; kết luận về trách nhiệm và hình thức xử lý đối với cán bộ, công chức, cơ quan Nhà nước có sai phạm; quyết định việc công bố những trường hợp điển hình trên các phương tiện thông tin đại chúng để có tác dụng giáo dục và phòng ngừa.
- Nếu thấy việc giải quyết của các cấp có thẩm quyền là đúng chính sách, pháp luật thì Tổ công tác đối thoại trực tiếp, giải thích, thuyết phục người khiếu nại, tố cáo để họ chấp nhận, chấm dứt khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp người khiếu nại, tố cáo vẫn không chấp nhận thì Tổ trưởng Tổ công tác theo sự uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ có văn bản kết luận những nội dung đã được xem xét giải quyết hoặc cân nhắc để quyết định trưng cầu ý kiến tham gia của một hoặc nhiều tổ chức xã hội đại diện cho lợi ích của người khiếu nại, tố cáo như Đoàn luật sư, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, v. v... trước khi có văn bản kết luận. Sau khi có văn bản kết luận của Tổ trưởng Tổ công tác, nếu người khiếu nại, tố cáo vẫn tỏ ra thiếu thiện chí, có biểu hiện lạm dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, lăng mạ cán bộ, công chức, cơ quan Nhà nước, gây rối trật tự công cộng, dẫn dắt người khiếu nại, tố cáo đến nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo, trú ngụ trái phép thì Tổ trưởng Tổ công tác yêu cầu cơ quan công an áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hình sự theo quy định của pháp luật, đồng thời công bố rõ nội dung vụ việc trên các phương tiện thông tin đại chúng.
b. Đối với những vụ việc chưa được xem xét giải quyết theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thì Tổ công tác giải thích và có văn bản hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo đến cơ quan có trách nhiệm để giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan có trách nhiệm giải quyết phải thụ lý, ra quyết định giải quyết theo quy định của pháp luật và báo cáo kết quả lên Tổ công tác theo thời hạn do Tổ trưởng Tổ công tác ấn định.
c. Đối với những khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động tố tụng thì Tổ công tác lập danh sách từng vụ việc cụ thể; trên cơ sở đó Tổ trưởng Tổ công tác hướng dẫn, giải thích cho người khiếu nại, tố cáo đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết và có văn bản đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, có kết luận và thông báo lại kết quả giải quyết để Tổ trưởng Tổ công tác tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Thông qua vấn đề này, đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có biện phải giải quyết có hiệu quả việc công dân khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tố tụng, khắc phục tình trạng khiếu nại, tố cáo không đúng nơi quy định.
3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nghĩa vụ hỗ trợ Tổ công tác của Thủ tướng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giải quyết nghiêm túc những nội dung, vụ việc do Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng yêu cầu; đồng thời tuỳ theo đặc điểm tình hình thực tế của ngành hoặc địa phương có thể áp dụng những quy định về thành phần và nguyên tắc làm việc tương tự như Tổ công tác của Thủ tướng để xử lý các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng tại ngành, địa phương mình.
4. Bộ Công an thành lập Tổ công tác đặc trách bảo đảm an ninh, trật tự thường xuyên tại Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước, tại một số cơ quan Trung ương và nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước mà công dân thường hay tập trung đông người để khiếu nại, tố cáo. Tổ công tác đặc trách này do một đồng chí lãnh đạo Bộ phụ trách, có trách nhiệm hướng dẫn công dân khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật; có biện pháp ngăn chặn không để công dân khiếu nại, tố cáo sai nơi quy định, đặc biệt là khiếu nại, tố cáo tại nhà riêng các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước; phối hợp với Tổ công tác của Thủ tướng nắm danh sách, tiến độ giải quyết đối với từng trường hợp cụ thể để có biện pháp xử lý thích hợp; áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính, hoặc lập hồ sơ để xử ký hình sự trong những trường hợp cần thiết theo yêu cầu của Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng. Bộ trưởng Bộ Công an quy định mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc để thực hiện tốt nhiệm vụ trên.
5. Đối với người khiếu nại, tố cáo, sau khi đã được các Tổ công tác hướng dẫn, yêu cầu phải chấp hành theo đúng sự hướng dẫn, trở về nơi cư trú chờ kết quả giải quyết, khi đã có văn bản kết luận của Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng thì yêu cầu phải chấp hành và chấm dứt khiếu nại, tố cáo.
6. Sau 7 ngày kể từ khi nhận được chỉ thị này, Tổng Thanh tra Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Công an có báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ tình hình triển khai tổ chức các Tổ công tác nêu ở điểm 2, điểm 4 của Chỉ thị này. Ngoài việc xin ý kiến quyết định, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đối với những vụ việc cụ thể, hàng tháng các Tổ công tác có báo cáo lên Tổng Thanh tra Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Công an và Thủ tướng Chính phủ về diễn biến tình hình, tiến độ và kết quả giải quyết, những khó khăn vướng mắc trong công việc do mình phụ trách.
7. Tổng Thanh tra Nhà nước sớm triển khai Hội nghị tập huấn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo khu vực cho các đồng chí Chánh Thanh tra các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và Chánh Thanh tra các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
8. Đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao chỉ đạo các Toà hành chính tổng kết việc giải quyết các vụ án hành chính kể từ khi thành lập để trước mắt tăng cường sự phối hợp với Tổng Thanh tra Nhà nước trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Đồng thời, trên cơ sở tổng kết, yêu cầu Bộ Tư pháp phối hợp nghiên cứu, đề xuất chủ trương, biện pháp mở rộng thẩm quyền xét xử và kiện toàn tổ chức, cán bộ của Toà hành chính đi đôi với bổ sung pháp luật, thể chế làm cơ sở cho việc xét xử nhằm từng bước chuyển các khiếu kiện của công dân đối với các cơ quan, công chức hành chính sang phương thức tranh tụng xét xử tại toà án.
9. Đề nghị cơ quan Trung ương của các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị - xã hội hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chức thành viên tăng cường vận động, giáo dục quần chúng, hoà giải các tranh chấp và cùng tham gia với các cơ quan Nhà nước giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo của công dân./.
Chọn sản phẩm: --- Kim Loại MXV Index Năng lượng Nguyên liệu công nghiệp Nông sản